Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

THUYẾT ESTOPPEL VÀ GIÁ TRỊ CỦA CÔNG HÀM 14/09.


Sử dụng công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm bằng chứng, Trung Quốc đã bộc lộ điểm yếu tạo cơ hội cho Việt Nam đòi lại quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa
Lê Văn Cường
Kỹ sư xây dựng

Phân tích sự việc chính quyền Trung Quốc (TQ) sử dụng công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (TT PVĐ) làm bằng chứng chứng minh chính Việt Nam (VN) cũng tán đồng Hoàng Sa và Trường Sa (HS–TS) thuộc chủ quyền “không thể tranh cãi” của TQ, chúng ta thấy rõ ý đồ thâm hiểm, tinh vi nhưng cực kỳ xuẩn ngốc của chính quyền TQ.



Ý đồ thâm hiểm, tinh vi nhưng cực kỳ xuẩn ngốc của chính quyền TQ khi sử dụng công hàm năm 1958 của cố TT PVĐ làm chứng cứ ở chỗ tự nó đã lộ ra việc TQ không hề có bất cứ bằng chứng lịch sử nào chứng minh quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của mình, nên buộc phải sử dụng công hàm năm 1958 của TT PVĐ và hy vọng dựa vào cái phao lý thuyết Estoppel đã có thông lệ áp dụng tại toà án quốc tế. Đại ý lý thuyết Estoppel phán xét rằng: Anh không thể nói hai lời trái ngược nhau, trước đây anh đã tuyên bố mảnh đất ấy là của tôi, thì nay anh không được phép tuyên bố ngược lại mảnh đất đó là của anh. Trước đây TT PVĐ của VN đã tán đồng, công nhận HS-TS thuộc chủ quyền của TQ thì nay VN không được phép nói ngược lại. Lời nói ngược lại của VN không có giá trị.


Lý thuyết Estoppel có giá trị áp dụng khi nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt nam (CHXHCNVN) và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) là một. Điều này có thể làm cho các nhà lãnh đạo nước CHXHCNVN lúng túng, không biết nên xử lý thế nào! Nếu phủ định nước VNDCCH không phải là nước CHXHCNVN thì không được, vì không đúng với lịch sử. Nhưng nếu công nhận nước VNDCCH và nước CHXHCNVN là một thì lại sa vào bẫy, lý thuyết Estoppel lập tức có giá trị áp dụng, VN sẽ đuối lý không cãi được trước Toà án Quốc tế.

Có thể vì vậy Bộ Ngoại giao và Chính phủ Việt Nam đành phải “ngậm hạt thị”, gây sự cố lỗi hẹn không trả lời Kiến nghị của 18 vị nhân sỹ trí thức vào ngày 13/7/2011 vừa qua, trong đó có mục quan điểm của chính phủ VN đối với công hàm năm 1958 của cố TT PVĐ.

Nếu đúng với lý do như trên chứ không phải vì lý do nào khác thì 18 vị nhân sỹ trí thức gửi Kiến nghị cũng sẽ thông cảm và huy động những tài trí đang ẩn tàng trong nhân dân mách nước, trợ giúp.

Việc chính quyền TQ đang gây hấn, lấn chiếm tại biển đông thuộc lãnh hải VN ngày càng trầm trọng, nóng bỏng cần phải khẩn trương giải quyết. May thay! Vấn đề “ngậm hạt thị” khi đối chọi với thuyết Estoppel và công hàm năm 1958 của TT PVĐ đã được một ông ẩn danh nào đó đề cập tới. Ông ẩn danh phân tích tình hình và lý luận rằng:

Không hiểu sao chính quyền VN cứ lo sợ hão huyền, sẽ không có chuyện xảy ra chiến tranh, xung đột đổ máu nào đâu nếu Việt Nam cứ đàng hoàng yêu cầu TQ dừng ngay việc gây hấn và phải trả lại những phần đã chiếm tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988. Bởi lẽ nếu TQ gây sự, đụng đến VN, đồng nghĩa với việc TQ lộ rõ bộ mặt bá quyền muốn làm bá chủ thế giới, sẽ đụng đến toàn thể các nước yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới ngay. Một cuộc chiến tranh bùng nổ, một bên đơn độc là TQ và một bên là toàn thể thế giới bảo vệ cho lẽ phải và sự công bằng. Chính quyền cộng sản cai trị nước CHND Trung Hoa chắc chắn sẽ sụp đổ, lãnh đạo TQ hiện nay đủ trí khôn để nhận ra điều đó và cũng không muốn điều đó xảy ra. Việt Nam hiện nay đang ở thế vô cùng thuận lợi để đòi lại những gì mà TQ đã chiếm đoạt. Đòi lại quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của VN đã bị TQ chiếm đoạt năm 1974 và 1988 bằng cách nào? Rất đơn giản, chính phủ Việt Nam cứ thẳng thắn và cương quyết yêu cầu phía TQ phải rút hết người và các phương tiện tại các quần đảo HS-TS trong vòng 1 tháng để chính quyền VN tiếp quản. Nếu phía TQ không đồng ý hoặc giả vờ đồng ý rồi cứ ở lỳ đó thì buộc lòng chính phủ VN phải đưa ra toà án Liên Hiệp Quốc phân xử.

Nếu đưa ra toà án Liên Hợp Quốc, chắc chắn TQ sẽ thua kiện, vì TQ không có bằng chứng lịch sử nào chứng minh quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của TQ. TQ chỉ dựa vào cái công hàm năm 1958 và thuyết Estoppel. Cái công hàm năm 1958 và thuyết Estoppel đã được hoá giải không thể áp dụng bằng lập luận:

Bất cứ nước nào trên thế giới, chính phủ nước đó phải có trách nhiệm đảm bảo giữ gìn an ninh cuộc sống cho cộng đồng cư dân đang sinh sống tại lãnh thổ nước đó. Chính phủ nước VNDCCH phải có trách nhiệm đảm bảo cuộc sống và giữ gìn an ninh cuộc sống cho cộng đồng cư dân sinh sống trên lãnh thổ phía Bắc Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Cộng hoà (VNCH) phải có trách nhiệm đảm bảo giữ gìn an ninh cuộc sống cho cộng đồng cư dân sinh sống trên lãnh thổ phía Nam Việt Nam. Vì một lý do nào đó hai chính phủ nước VNDCCH và chính phủ nước VNCH hợp nhất lại với nhau thành một chính phủ mới thì chính phủ mới đó phải có trách nhiệm đảm bảo giữ gìn an ninh cuộc sống cho cộng đồng cư dân thuộc cả hai vùng lãnh thổ của cả hai nước VNDCCH và VNCH. Cụ thể nước VNDCCH và nước VNCH hợp nhất thành nước CHXHCNVN thì chính phủ nước CHXHCNVN phải có trách nhiệm đảm bảo giữ gìn an ninh cuộc sống cho cộng đồng cư dân sinh sống trên toàn bộ lãnh thổ của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam.

Qua đó, bất kỳ ai cũng nhận thức được rằng chính quyền nước VNDCCH chỉ là một bộ phận, một chính quyền địa phương phía Bắc thuộc nước CHXHCNVN từ năm 1976, (nước CHXHCNVN bao gồm và hợp nhất của hai nước VNDCCH, lãnh thổ địa phương phía Bắc và nước VNCH, lãnh thổ địa phương phía Nam). Vì chính phủ nước VNDCCH chỉ là một chính quyền địa phương phía Bắc nên mọi tuyên bố của chính phủ nước VNDCCH chỉ có tính chất địa phương chứ không có tính chất đại diện cho toàn thể nước CHXHCNVN và như tuyên bố của chính phủ nước CHXHCNVN, nên không áp dụng được lý thuyết Estoppel. Hơn nữa nước VNCH, lãnh thổ địa phương phía Nam ngày nay thuộc quyền quản lý của chính phủ nước CHXHCNVN nên chính phủ nước CHXHCNVN phải có quyền và có trách nhiệm với cộng đồng cư dân sinh sống tại đây giải quyết những vướng mắc tồn đọng của nước VNCH trước kia. Do đó lý thuyết Estoppel cũng không áp dụng được trong trường hợp chính phủ nước CHXHCNVN đại diện cho chính quyền địa phương phía Nam ngày nay tức chính phủ nước VNCH trước đây khởi đơn kiện đòi chủ quyền quần đảo HS-TS đã bị TQ chiếm đoạt năm 1974 và năm 1988.

Quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền của nước VNCH, chính quyền địa phương phía Nam thuộc nước CHXHCNVN ngày nay, có nhân chứng là chính phủ Pháp và chính phủ Hoa kỳ làm chứng tính đến thời điểm năm 1973. Thử hỏi phía chính quyền TQ có nhân chứng nào chứng nhận quần đảo HS-TS thuộc chủ quyền TQ? Đó là chưa kể tới việc phía VN có rất nhiều tài liệu lịch sử chứng minh HS-TS thuộc chủ quyền của VN còn TQ thì không có tài liệu lịch sử nào khác ngoài cái công hàm năm 1958 của TT PVĐ và lý thuyết Estoppel không áp dụng được. Vụ án sẽ nhanh chóng kết thúc và TQ sẽ thua kiện, chịu án phí.

Có lẽ đã chợt hiểu lý sự cùn không bịp được nhân dân Việt nam, nên TQ đã nhanh chóng đổi chiến thuật ép VN và Philippines chỉ đàm phán song phương, tuyệt đối không đưa ra toà án quốc tế. Chính phủ Việt Nam phải hết sức tỉnh táo, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Cũng nên nhắc lại lời cảnh báo tới các nhà lãnh đạo nước CHXHCNVN rằng: Đây là thời cơ thuận lợi duy nhất để Việt nam đòi lại chủ quyền biển đảo đã bị TQ chiếm đoạt năm 1974 và năm 1988. Nếu để lỡ thời cơ, không đòi lại được phần đã mất, tức là các vị không làm tròn trách nhiệm được nhân dân cả nước tin tưởng giao phó.

Hà Nội, ngày 16/7/2011

L.V.C.

GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA CÁI GỌI LÀ CÔNG HÀM 14/09 CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG.

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.


Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

"Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.

Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.



Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.



Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.



Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.



Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.


Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”...

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.

Nhóm PV Biển Đông
Nguồn: Đại Đoàn kết

DOANH NHÂN NGA:RỜI BỎ ĐẤT NƯỚC VÌ SỢ ĐỐI DIỆN VỚI THAM NHŨNG.

Nước Nga đang đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám trầm trọng khi thế hệ doanh nhân trẻ đang rời bỏ quê nhà với tỉ lệ gia tăng chưa từng thấy kể từ khi liên bang Xô Viết tan rã.

Khi mới 17 tuổi, cậu học sinh Alexei Terentev tại Moscow từng được coi là một nhà sáng chế hứa hẹn ở Nga. Nhưng ngay sau khi tốt nghiệp tại một trong những trường đại học hàng đầu ở Moscow vào tháng 6.2010, Terentev đã chuyển sang Cộng hòa Czech để lập nghiệp. Trước đó, công ty lưu trữ dữ liệu của anh tại Nga đang trên đà ăn nên làm ra và có thể giúp anh trở thành triệu phú. Nhưng khi quy mô công ty mở rộng thì anh nhận được sự chú ý khác thường từ các quan chức. Bây giờ chỉ mới 22 tuổi, Terentev cũng không chắc khi nào sẽ hồi hương.

Nguyên nhân vội vã ra đi của Terentev cũng là lo lắng chung của những doanh nghiệp trẻ tại Nga do tình trạng tham nhũng và quan liêu. Trong vòng ba năm qua, văn phòng Kiểm toán Nhà nước cho biết 1,25 triệu người Nga đã xuất ngoại lập nghiệp nơi đất khách. Phần lớn trong số đó là những doanh nghiệp trẻ và người trung lưu. Kể từ thời hậu Liên Xô, Nga dần phát triển ổn định và đi lên, nhưng các chủ doanh nghiệp nhỏ thì cảm thấy kém an toàn hơn bao giờ hết.

Đối với những người chỉ mới khởi nghiệp, nỗi sợ phổ biến không phải là sự cạnh tranh hay phá sản, mà là sự “viếng thăm” của những quan chức thích nhũng nhiễu. Họ lui tới để đòi hối lộ, hoặc lịch sự hơn là cung cấp những dịch vụ bảo vệ có trả phí (còn gọi là krysha). Tháng 6.2011, bộ Kinh tế Nga cho biết chỉ riêng năm 2010 người Nga đã chi 581 triệu USD để hối lộ các quan chức "cung cấp dịch vụ an ninh", gấp 13 lần so với năm 2005. Hàng chục trường hợp khi các chủ doanh nghiệp từ chối dịch vụ kyrsha, thì sẽ bị thanh tra cứu hỏa, kiểm toán, thuế và cảnh sát xét hỏi liên tục. Nếu người chủ vẫn không biết điều, một vụ án hình sự nhỏ có thể mở ra, thông thường là chiếu theo một luật mơ hồ nhằm cấm "doanh nghiệp hoạt động trái phép".

Đối với những doanh nhân cứng đầu nhất thì sẽ được răn đe bằng một cuộc đột kích vào công ty. Những vụ đột kích nhỏ lẻ thường không được truyền thông trong nước chú ý tới. Nhưng tin tức lan truyền trong cộng đồng doanh nhân nhanh chóng qua con đường truyền miệng và trên mạng Internet.

Trở lại câu chuyện của Terentev, anh nhận được cú điện thoại bất ngờ vào một sáng tháng 2 năm ngoái. Khi đó, một trung tâm dữ liệu tại công ty lưu trữ dữ liệu hàng đầu tại Nga là Agava bị cảnh sát bố ráp vì tình nghi chứa trò chơi video trái phép. Sáu tuần sau đó, công ty này lại một lần nữa bị đơn vị cảnh sát khác bao vây vì nghi chứa phim ảnh khiêu dâm trẻ em. Thay vì điều tra rõ ràng, những cảnh sát đã tắt máy chủ khiến khách hàng của Agava điêu đứng. Tin tức về vụ việc lan nhanh đến nỗi tổng thống Dmitri Medvedev bực tức và đích thân can thiệp. Máy chủ sau đó đã được bật lên. Nhưng tổn hại đến uy tín của ngành này đã quá rõ ràng. Terentev nói: "Ai cũng có thể tắt nguồn dữ liệu!".

Không chỉ những doanh nghiệp mà cả những người bình dân cũng rời quê hương. Một khảo sát do cơ quan thống kê nhà nước VTSIOM thực hiện, công bố ngày 10.6 cho thấy 21% dân Nga muốn di cư, tăng 5% so với năm 1991 - năm Liên bang Xô viết chính thức tan rã. Phần lớn trong đó là những người trẻ, được giáo dục tốt và thường xuyên sử dụng internet. Đây là những người mà tổng thống Medvedev trông cậy sẽ xây dựng nên một thung lũng Silicon của Nga - trung tâm công nghệ Skolkovo.

Trong chính sách phát triển khu vực Skolkovo sẽ thiết lập một siêu-krysha để bảo vệ những doanh nghiệp trẻ khỏi các quan chức tham nhũng. Trung tâm đang hợp tác với bộ Nội vụ để tuyển chọn và đào tạo một đội cảnh sát riêng. "Sẽ không còn ai có thể xông thẳng vào và nói "Đóng cửa công ty của anh đi" - giám đốc phát triển quốc tế Alexei Sitnikov của trung tâm chia sẻ. Nhưng khu vực này cũng chỉ có thể chứa được khoảng vài trăm doanh nghiệp. Đến nay đã có 120 dự án được chọn. Cho nên những người như Terentev chỉ còn cách tính đường sang các nước phương tây.

Năm ngoái, một phóng viên Nga đã phỏng vấn nhà khoa học người Nga lưu vong, Andre Geim từng đoạt giải Nobel Vật lý 2010 rằng lúc nào sẽ quay về phục vụ Tổ quốc, ông Geim đáp: "Kiếp sau".

Nam Liên (theo TIME)

TUYÊN BỐ VỀ ỨNG XỬ CỦA CÁC BÊN Ở BIỂN ĐÔNG.

Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa (viết tắt là DOC) được các nước ASEAN và Trung Quốc ký ngày 04-11-2002 tại Phnom Penh, Campuchia nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8. Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và được coi là bước đột phá trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Việc ký DOC là kết quả nỗ lực của các nước ASEAN, đặc biệt là của 04 nước liên quan trực tiếp tranh chấp ở Trường Sa (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei) trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.

Dưới đây là nội dung đầy đủ của bản tuyên bố:

Chính phủ các quốc gia thành viên ASEAN và chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Tái khẳng định quyết tâm củng cố và phát triển tình hữu nghị và sự hợp tác đang tồn tại giữa các chính phủ và nhân dân các nước với quan điểm thúc đẩy mối quan hệ đối tác láng giềng tốt và tin cậy lẫn nhau hướng tới thế kỷ 21

Nhận thức rõ nhu cầu thúc đẩy một môi trường hòa bình, thân thiện và hài hòa trong vùng biển Nam Trung Hoa giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm nâng cao hòa bình, ổn định, tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng trong khu vực

Cam kết nâng cao những nguyên tắc và mục tiêu của tuyên bố chung của Hội nghị những người đứng đầu nhà nước/chính phủ các nước thành viên ASEAN và Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997

Mong muốn nâng cao những điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình và bền vững cho những tranh chấp và khác biệt giữa các quốc gia liên quan

Cùng tuyên bố như sau:

Điều 1: Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc) và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của luật pháp quốc tế được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với nhà nước

Điều 2: Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau hài hòa với những nguyên tắc nêu trên và trên căn bản bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau

Điều 3: Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời Biển Nam Trung Hoa như đã được minh thị bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982

Điều 4: Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982

Điều 5: Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng

Trong khi chờ đợi sự dàn xếp hòa bình cho các tranh chấp về lãnh thổ và quyền thực thi pháp luật, các bên liên quan tiến hành tăng cường những nỗ lực nhằm tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau trong tinh thần hợp tác và hiểu biết, bao gồm:

Tổ chức các cuộc đối thoại và trao đổi quan điểm một cách thích đáng giữa các quan chức phụ trách quân sự và quốc phòng
Bảo đảm đối xử công bằng và nhân đạo đối với tất cả mọi người đang gặp hiểm nguy hoặc tai họa
Thông báo trên cơ sở tự nguyện cho các bên liên quan khác về mọi cuộc tập luyện quân sự liên kết/hỗn hợp sắp diễn ra
Trao đổi trên cơ sở tự nguyện những thông tin liên quan

Điều 6: Trong khi chờ đợi một sự dàn xếp tòan diện và bền vững những tranh chấp, các bên liên quan có thể tìm kiếm hoặc tiến hành các hoạt động hợp tác. Những hoạt động này có thể bao gồm các điều sau đây:

Bảo vệ môi trường biển
Nghiên cứu khoa học biển
An toàn hàng hải và thông tin trên biển
Hoạt động tìm kiếm cứu hộ
Đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, kể cả nhưng không hạn chế trong hoạt động buôn lậu các loại thuốc cấm, hải tặc và cướp có vũ trang trên biển, hoạt động buôn bán trái phép vũ khí

Thể thức, quy mô và địa điểm, đặc biệt là sự hợp tác song phương và đa phương, cần phải được thỏa thuận bởi các bên có liên quan trước khi triển khai thực hiện trong thực tế

Điều 7: Các bên liên quan sẵn sàng tiếp tục các cuộc đối thoại và tham vấn về những vấn đề liên quan, thông qua các thể thức được các bên đồng ý, kể cả các cuộc tham vấn thường xuyên theo quy định của Tuyên bố này, vì mục tiêu khuyến khích sự minh bạch và láng giềng tốt, thiếp lập sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau một cách hài hòa, và tạo điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình và tran chấp giữa các bên

Điều 8: Các bên có trách nhiệm tôn trọng những điều khoản của Tuyên bố này và hành động phù hợp với sự tôn trọng đó

Điều 9: Các bên khuyến khích các nước khác tôn trọng các nguyên tắc bao hàm trong Tuyên bố này

Điều 10: Các bên liên quan khẳng định rằng việc tiếp thu một bộ quy tắc về ứng xử trên Biển Nam Trung Hoa sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn hòa bình và ổn định trong khu vực và nhất trí làm việc trên căn bản đồng thuận để tiến tới hoàn thành mục tiêu này

Làm vào ngày 04 tháng 11 năm 2002 tai PhnomPenh, Vương quốc Campuchia

Đại diện các nước ASEAN: Bộ trưởng ngoại giao các nước

Đại diện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Wang Yi - Đặc phái viên, Thứ trưởng Bộ ngoại giao
[sửa] Thực tế đàm phán thực hiện

Từ năm 2005 đến nay, Nhóm công tác chung đã có 6 cuộc họp, trong đó các cuộc họp gần đây là Cuộc họp thứ 4 tại Hà Nội (tháng 4-2010), Cuộc họp thứ 5 tại Côn Minh, Trung Quốc (tháng 12-2010) và cuộc họp thứ 6 tại Indonesia (tháng 4-2011). Nhóm công tác đã tập trung thương thảo về các quy tắc hướng dẫn và đã đạt được những tiến triển tích cực, cụ thể là đã nhất trí được phần lớn các quy tắc hướng dẫn. Hiện nay chuyên gia ASEAN đang tăng cường các nỗ lực thương lượng với các chuyên gia Trung Quốc để sớm hoàn thành Bản Quy tắc hướng dẫn.

Cho đến nay, Trung Quốc vẫn không áp dụng những gì đã hứa. Không những thế, mọi nỗ lực của Hiệp hội Đông Nam Á nhằm thúc đẩy Bắc Kinh thực thi lời cam kết đều bị gạt bỏ, đúng theo lập trường không thương thuyết đa phương của mình.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng uy thế của mình để tạo ra tình trạng chia rẽ trong ASEAN trên vấn đề Biển Đông, giữa các nước có tranh chấp với Trung Quốc và các nước không dính dáng gì đến hồ sơ này. Nhóm nước thứ hai này được coi là dễ dàng chiều ý Bắc Kinh hơn vì không muốn mất quyền lợi kinh tế thương mại.

Thí dụ mới nhất cho thấy điều này là thất bại gần đây của cuộc họp ASEAN-Trung Quốc tại Côn Minh cho dù mục tiêu đề ra được cho là rất khiêm tốn : thông qua dự thảo bản hướng dẫn thực hiện Bản Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển Đông DOC.

Cuộc họp ASEAN-Trung Quốc này diễn ra vào hai ngày 24 và 25/1/2011 tại Côn Minh, Trung Quốc bàn về việc thiết lập một bộ luật ứng xử trên Biển Đông nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực quần đảo Trường Sa đang có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam và một số nước ASEAN khác. Cuộc họp này do Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì triệu tập nhân kỷ niệm 20 năm hợp tác Trung Quốc-ASEAN. Cuộc họp đã thất bại.

Việt Nam, Malaysia và Philippines đều muốn áp dụng một điều khoản thiết yếu trong dự thảo bản hướng dẫn thực hiện DOC. Điều khoản này quy đinh rằng ASEAN “sẽ tiếp tục thông lệ hiện hành là họp lại tham khảo ý kiến lẫn nhau trước khi họp với Trung Quốc”. Phía Bắc Kinh đã chống lại lập trường của ASEAN, và có dấu hiệu chỉ muốn đàm phán song phương vì điều này giúp họ có ưu thế nhiều hơn. Theo nhận định, bất đồng trên điều khoản đó đã khiến cho thương thuyết về bản hướng dẫn thực hiện DOC còn bị bế tắc trong nhiều năm nữa.

Nguồn:Wikipedia.

Thật ra DOC có ý nghĩa chính trị nhiều hơn là ràng buộc pháp lý.Và có tuyên bố gì gì đi nữa mà Trung quốc cứ khăng khăng cái lưỡi bò và ngày càng tăng cường Hải giám với hải quân thì cũng như chém gió thôi.