Tháng  5-2009, Trung Quốc gửi công hàm tới Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc và kèm  theo một tấm bản đồ có vẽ 9 đoạn đứt khúc (còn gọi là "đường chữ U” hay  "đường lưỡi bò”) thể hiện yêu sách bao chiếm gần như toàn bộ Biển Đông.  Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế thừa nhận "vùng biển lịch sử” của  họ được bao chiếm bởi "đường lưỡi bò”. Tuy nhiên, điều đáng nói là từ đó  đến nay mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ làm rõ được cơ sở pháp lý của  các đòi hỏi này nhưng hành động của họ thì lại ngày càng gia tăng gây  hấn, xâm phạm thô bạo chủ quyền lãnh thổ của nhiều quốc gia trong khu  vực làm cho tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng.
   
           
  
  Tàu Viking 2 của Việt Nam
   
  Công hàm ngày 7-5-2009 có lẽ là văn bản đầu tiên  trong hơn 60 năm qua thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về yêu  sách "đường lưỡi bò” và cũng là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công  bố bản đồ "đường lưỡi bò” với toàn thế giới. Trước đó, mặc dù "đường  lưỡi bò” đã được thể hiện nhiều lần trong một số bản đồ lưu hành trong  nước, nhưng Chính phủ của họ chưa bao giờ có một tuyên bố chính thức nào  trước cộng đồng quốc tế. Thậm chí trong những văn bản pháp lý quan  trọng của Nhà nước Trung Quốc về các vùng biển như các Tuyên bố về Lãnh  hải năm 1958, về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992, về Đường cơ sở năm  1996, và về Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa năm 1998... "đường  lưỡi bò” cũng không hề được nhắc tới. Theo các học giả Trung Quốc,  "đường lưỡi bò” lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ các đảo trong Biển  Đông (mà họ gọi là Biển Hoa Nam) được Vụ Địa lý của Bộ Nội vụ Cộng hòa  Trung Hoa xuất bản năm 1948. Một số người cố đẩy thời gian xuất hiện của  "đường lưỡi bò” xa hơn nhằm mục đích giải thích có lợi cho Trung Quốc.  Họ cho rằng "đường lưỡi bò” do một người tên Hu Jinjie vẽ từ năm 1914 và  đến tháng 12-1947 một viên chức của Cộng hòa Trung Hoa tên là Bai  Meichu vẽ lại đường này trong một bản đồ cá nhân để thể hiện cảm xúc của  mình khi nghe tin Pháp chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa năm  1933. Tuy nhiên họ cũng thừa nhận: "Không rõ khi vẽ đường này Bai  Meichu có đủ hiểu biết và kiến thức về luật biển quốc tế đương đại hay  không?”. "Đường lưỡi bò” khởi thủy có 11 đoạn vẽ bao gồm các quần đảo  Đông Sa, Hoàng Sa, Trường Sa và bãi ngầm Trung Sa chiếm hầu hết Biển  Đông. Tuy nhiên, đến năm 1953, đường 11 đoạn được điều chỉnh lại thành 9  đoạn như ngày nay, bỏ 2 đoạn trong Vịnh Bắc Bộ. Đáng lưu ý là đến nay  không có bất kỳ tài liệu nào cho biết tọa độ cũng như vị trí chính xác  của "đường lưỡi bò”. Rõ ràng nguồn gốc và ý nghĩa của "đường lưỡi bò”  hoàn toàn mập mờ, không chính xác đến nỗi bản thân các học giả Trung  Quốc cũng không thống nhất được một sự giải thích hợp lý nào. Thậm chí,  có học giả Trung Quốc còn cho rằng "không có cơ sở nào trong luật quốc  tế cho yêu sách lịch sử đó” (Yann Huei Song). Gần đây, trên các trang  mạng của Trung Quốc cũng xuất hiện nhiều ý kiến của chính người Trung  Quốc thắc mắc về việc "tại sao lại vẽ Nam Hải của chúng ta tới tận cửa  nhà người ta?”. 
   
  
    
  Bản đồ đường yêu sách 9 đoạn (đường lưỡi bò) Trung Quốc
   gửi kèm công hàm lên Liên hợp quốc năm 2009 
  phản đối báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa
   của Việt Nam và Malaysia
  Biên giới và chủ quyền lãnh thổ là vấn đề thiêng  liêng, hệ trọng từ rất lâu trong lịch sử của mọi dân tộc. Các cơ sở pháp  lý quốc tế đều coi trọng việc bảo vệ đường biên giới ổn định của các  quốc gia. Do vậy, đường biên giới là một trong số các thể chế ổn định  nhất từ tất cả các thể chế. Vậy mà trong vấn đề "đường lưỡi bò” ngay đến  cả người Trung Quốc, tác giả của đường yêu sách này, còn chưa biết nó  được xác định cụ thể như thế nào thì làm sao có thể gọi đó là biên giới  quốc gia được.
  Theo TS Nguyễn Hồng Thao (Đại học Quốc gia Hà Nội),  với Công hàm ngày 7-5-2009 kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò”, có vẻ như  Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận tính chất lịch sử  của "đường lưỡi bò” và mặc nhiên coi Biển Đông là vùng biển lịch sử của  Trung Quốc. Về lâu dài, sự nhập nhằng sẽ khiến đường này được ngộ nhận  là đường biên giới trên biển của Trung Quốc. Họ cũng khéo léo kết hợp  đường này với các khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của  luật biển quốc tế hiện đại bằng tuyên bố Trung Quốc có chủ quyền không  thể tranh cãi với các vùng nước phụ cận của quần đảo Trường Sa. Như vậy,  toàn bộ Biển Đông sẽ trở thành "ao nhà” của Trung Quốc. Tuy nhiên, theo  luật pháp quốc tế, một vịnh hay một vùng nước được coi là vùng có tính  chất lịch sử, phải thoả mãn ít nhất hai điều kiện: Phải thực thi chủ  quyền thật sự liên tục, hoà bình và lâu dài; Phải có sự chấp nhận công  khai hoặc im lặng không phản đối của các quốc gia khác, đặc biệt là các  quốc gia láng giềng và có lợi ích liên quan. Trung Quốc đã không đưa ra  được bất kỳ bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ  quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hoà bình  và lâu dài. Không có một bằng chứng nào trong cổ sử Trung Quốc cho thấy  Biển Đông là "ao nhà” của họ. Các chính quyền phong kiến Trung Quốc  không hề thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào trong  vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động của các hải đội Hoàng Sa,  Bắc Hải của nhà Nguyễn (Việt Nam). Ngược lại, còn có những ghi nhận về  sự thừa nhận tính hợp pháp của các hoạt động của hải đội Hoàng Sa như  trường hợp năm 1774, quan huyện Văn Xương (Trung Quốc) giúp các dân binh  Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất Trung Quốc trở về  nguyên quán. Trung Quốc cũng chưa bao giờ công bố công khai yêu sách  "đường lưỡi bò” một cách chính thức trước cộng đồng quốc tế. Mặc dù các  học giả Trung Quốc cho rằng "đường lưỡi bò” tồn tại từ lâu không bị ai  phản đối, thế nhưng "đường lưỡi bò” trước đây chỉ xuất hiện trong một  bản đồ tư nhân, không phải là cái để các quốc gia khác có ý kiến. Hơn  nữa, Hội nghị San Francisco 1951 cũng đã bác bỏ đề nghị về chủ quyền của  Trung Quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy  yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc chưa bao giờ được cộng đồng quốc  tế thừa nhận. "Đường lưỡi bò” còn mâu thuẫn ngay với quan điểm chính  thức của Trung Quốc đã nêu trong Tuyên bố ngày 4-6-1958 về các vùng biển  Trung Quốc. Trong Tuyên bố này rõ ràng Trung Quốc công nhận rằng các  đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả, chứ không phải bởi các vùng  nước lịch sử. Trong Luật về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1992, Trung  Quốc cũng chỉ nêu đòi hỏi lãnh hải 12 hải lý xung quanh những vùng đất  yêu sách chủ quyền và vùng tiếp giáp 12 hải lý dành cho thuế quan và các  mục đích tương tự chứ không hề xác định "vùng nước lịch sử”. Ngày  15-6-1996, Trung Quốc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển  năm 1982 (UNCLOS) và ban hành "Quy định về hệ thống đường cơ sở để tính  chiều rộng lãnh hải”, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Điều  này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và cũng là sự vi phạm các  quy định của UNCLOS về vạch đường cơ sở.
   
  
    
  2 trong số 3 tàu hải giám Trung Quốc
   đã xâm phạm lãnh hải Việt Nam,
   lao vào cắt cáp và cản trở hoạt động 
  của tàu Bình Minh 02 ngày 26-5-2011
   
  Chủ quyền lãnh thổ không thể có được từ sự suy diễn  dựa trên những dẫn chứng thiếu căn cứ. Do vậy, "đường lưỡi bò” không  được xác định rõ cả về cơ sở pháp lý lẫn toạ độ địa lý, đã vi phạm chủ  quyền lãnh thổ không chỉ của các nước liên quan mà còn là sự thách thức  đối với quyền lợi hàng hải, hàng không của cộng đồng quốc tế. Cộng đồng  thế giới chưa bao giờ ghi nhận một yêu sách chiếm cứ hầu hết toàn bộ  Biển Đông như vậy và sẽ không bao giờ chấp nhận một vùng biển lớn, con  đường hàng hải quốc tế quan trọng vào loại nhất nhì thế giới lại nằm  dưới quyền tài phán của duy nhất một quốc gia như yêu sách "đường lưỡi  bò” của Trung Quốc. 
   
     
  Tọa độ tàu Trung Quốc vào lãnh hải Việt Nam 
  cắt cáp của tàu Bình Minh 02
   
   
  Trung Quốc luôn tuyên bố muốn có hòa bình, ổn định  và chủ trương giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông một cách  êm thấm. Thế nhưng, gần đây Trung Quốc lại gia tăng các hoạt động gây  căng thẳng nhằm áp đặt yêu sách "đường lưỡi bò” chiếm gần trọn diện tích  Biển Đông bất chấp quyền lợi của các nước trong khu vực cũng như chính  các điều luật quốc tế mà họ đã công nhận và ký kết. Vào ngày 26-5 và  9-6-2011, tàu Trung Quốc đã hai lần xâm nhập cắt cáp thăm dò dầu khí của  tàu Việt Nam hoạt động trong vùng biển chủ quyền Việt Nam. Ngày  27-5-2011, Việt Nam gửi Công hàm cho Đại sứ Trung Quốc tố cáo Trung Quốc  vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển và quyền chủ quyền của Việt  Nam ngay trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.  Ngày hôm sau, Trung Quốc đáp lại rằng những gì họ làm là "thực thi luật  biển và các hoạt động giám sát là hoàn toàn bình thường trong vùng biển  thẩm quyền của Trung Quốc”. Ngày 29-5-2011, Việt Nam tiếp tục phản đối  hành động trên của Trung Quốc bằng cách tuyên bố rằng các tàu Việt Nam  đã thực hiện việc thăm dò hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm  lục địa 200 hải lý của mình, phù hợp với UNCLOS. Đây không phải là một  khu vực tranh chấp mà cũng không nằm trong "vùng quản lý của Trung  Quốc”. Trung Quốc đã cố ý đánh lừa dư luận rằng đây là vùng tranh chấp.  Hai ngày sau, Trung Quốc lại ngang ngược tuyên bố rằng hành động thực  thi luật pháp của các tàu hải giám Trung Quốc chống lại việc các tàu  Việt Nam vận hành bất hợp pháp là hoàn toàn chính đáng. Họ còn thúc giục  Việt Nam phải "ngay lập tức chấm dứt những hành động xâm phạm và không  được gây thêm rắc rối mới”. Nhưng, theo các nhà bình luận quốc tế, thêm  một lần nữa Trung Quốc đã không đặt tuyên bố của họ vào khuôn khổ của  các vùng nước UNCLOS. Và Trung Quốc cũng không đưa ra ranh giới cụ thể  cho yêu sách của họ cũng như trích dẫn ra bất kỳ điều luật quốc tế nào  để có thể biện minh cho lập luận và hành động của họ.
   
  
    
  Tàu ngư chính 311 tham gia giải cứu cho tàu cá Trung Quốc 
  trong vụ cắt cáp tàu Viking 2 ngày 9-6-2011
  Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự  Việt Nam tại Quảng Châu (Trung Quốc) phân tích: Biển Đông giàu có tài  nguyên trở nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là "lợi ích cốt lõi” của  Trung Quốc. Có thể khẳng định trong thời gian tới, vấn đề Biển Đông sẽ  là nơi Trung Quốc không những giữ nguyên những tham vọng vốn có mà nhất  định sẽ phát triển mạnh mẽ hơn trước nhiều lần và càng bất chấp thiên hạ  hơn”. Theo ông Dy, hơn lúc nào hết, Việt Nam và các bên liên quan phải  cảnh giác cao độ trước âm mưu của Trung Quốc trên Biển Đông. Điều trước  tiên là phải làm cho toàn thể người Việt Nam trong nước cũng như ngoài  nước thấy rõ sự đe dọa trực tiếp của Trung Quốc đối với chủ quyền của  Việt Nam tại Biển Đông. Từ đó, phát huy sức mạnh của dân tộc và thời  đại, khôn khéo, sáng tạo trong đường lối, chính sách đối ngoại bảo vệ có  hiệu quả nhất chủ quyền trên Biển Đông của nước ta.
  Nhóm PV Biển Đông
Nguồn:daidoanket.vn