Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

ĐAU THẮT NGỰC.

Đau thắt ngực là một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi các cơn đau ngực, thường được mô tả như một áp lực nặng nề, tức, ép, nóng bỏng, hoặc cảm giác nghẹt thở. Đau thắt ngực thông thường do giảm tưới máu cơ tim bởi hẹp động mạch vành. Đau thắt ngực ổn định mãn tính là biểu hiện phổ biến nhất của bệnh tim thiếu máu cục bộ (IHD), là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Hoa Kỳ. IHD ảnh hưởng đến 17,6 triệu người dân nước Mỹ. Một số lượng đáng kể của những bệnh nhân này (~ 10,2 triệu người) được chẩn đoán đau thắt ngực. Đau thắt ngực thứ phát sau IHD cũng là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của bệnh tim mạch đối với bác sĩ đa khoa và tim mạch. Do các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch (hội chứng chuyển hóa, béo phì, tiểu đường và cao huyết áp) ngày càng trở nên phổ biến, nên số lượng bệnh nhân đau thắt ngực và IHD ngày càng tăng.

Nitroglycerin là thuốc lâu đời nhất và phổ biến nhất được kê đơn theo hướng dẫn phòng chống đau thắt ngực, nó đã được sử dụng lâm sàng kể từ năm 1878. Nitrates giảm các triệu chứng đau thắt ngực bằng cách giảm nhu cầu oxy của cơ tim và cải thiện tưới máu cơ tim . Chúng thư giãn cơ trơn động mạch, do đó gây ra sự giãn nở của động mạch vành thượng tâm mạc, ngay cả khi các động mạch đã bị hẹp một phần. Các nitrat khác nhau trong phân bố và thời gian bắt đầu tác dụng. Nitrat tác dụng ngắn (ví dụ, viên nitroglycerin ngậm dưới lưỡi, thuốc xịt nitroglycerin) có tác dụng nhanh chóng, từ 1 đến 5 phút, do đó thích hợp cho việc cấp cứu ngay lập tức làm giảm hay ngừng cơn đau. Chúng cũng có thể được sử dụng dự phòng
vài phút trước khi vận động thể lực để tránh các cơn thiếu máu cục bộ . Mặc dù các viên nitroglycerin ngậm dưới lưỡi và thuốc xịt nitroglycerin được cho là có tác dụng tương đương, một nghiên cứu so sánh 2 nhóm tình nguyện khỏe mạnh cho thấy có sự khác biệt trong hiệu quả. Nghiên cứu này chứng tỏ rằng dạng thuốc xịt dưới lưỡi có ưu thế vượt trội so với viên thuốc đặt dưới lưỡi ở độ nhanh chóng, độ lớn, và thời gian giãn mạch, được đánh giá qua siêu âm động mạch cánh tay. Nitroglycerin tiêm tĩnh mạch, sử dụng trong bệnh viện, có hiệu quả sau 1 đến 2 phút. Nitrate tác dụng kéo dài (ví dụ, isosorbide dinitrate, mononitrates, miếng dán nitroglycerin , và thuốc mỡ nitroglycerin) có thời gian bắt đầu tác dụng khác nhau, từ 20 đến 60 phút và được sử dụng để phòng ngừa đau thắt ngực tái phát. Sự dung nạp nitrate là mối bận tâm lớn khi sử dụng thường xuyên nitroglycerin và nitrat tác dụng kéo dài. Dung nạp xảy ra trong vòng 12-24 giờ và có thể tránh được với việc tạo cửa sổ không nitrate trong khoảng 8 giờ mỗi ngày.Nitrate điều trị tối ưu đòi hỏi một sự am hiểu về các thuộc tính của các dạng thuốc khác nhau, đặc biệt là khởi phát , thời gian tác dụng và khả năng gây dung nạp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét